Kinh Nikaya

Kinh Nikaya, còn được gọi là Kinh tạng Nguyên thủy, là tập hợp các bài giảng và lời dạy của Đức Phật được ghi chép lại bằng tiếng Pali, một ngôn ngữ cổ Ấn Độ. Đây là một phần quan trọng của Tam tạng kinh điển Phật giáo, cùng với Kinh tạng Đại thừa và Tạng Luật.

Kinh Nikaya được xem là nguồn tài liệu chính thống và đáng tin cậy nhất về giáo lý Phật giáo Nguyên thủy, vì nó được biên tập và tập hợp chỉ sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn khoảng vài thế kỷ. Nội dung kinh điển được truyền miệng qua nhiều thế hệ đệ tử, sau đó được ghi chép lại một cách cẩn thận và chính xác.

Kinh Nikaya bao gồm 5 bộ kinh chính (Nikaya) được chia thành nhiều sutta (bài kinh) khác nhau:

  1. Kinh Trường Bộ (Digha Nikaya): Bao gồm các bài kinh dài và chi tiết về giáo lý Phật giáo.
  2. Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikaya): Ghi chép những bài giảng quan trọng và sâu sắc nhất của Đức Phật.
  3. Kinh Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya): Phân loại các bài kinh theo chủ đề tương tự.
  4. Kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaya): Phân chia các bài kinh theo số lượng pháp môn được trình bày.
  5. Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikaya): Tập hợp các bài kinh ngắn về nhiều chủ đề khác nhau.

Ngoài 5 bộ kinh chính, Kinh Nikaya còn có một số kinh điển bổ sung khác như Kinh luật (Vinaya Pitaka) và Kinh chú giải (Abhidhamma Pitaka).

Kinh Nikaya đóng vai trò nền tảng cho mọi học thuyết và thực hành trong Phật giáo Nguyên thủy. Nhờ vào những lời dạy quý báu của Đức Phật được ghi chép lại một cách trung thực và đầy đủ, Kinh Nikaya giúp chúng ta hiểu rõ hơn về con đường giác ngộ và cách thức áp dụng giáo lý Phật giáo vào cuộc sống hàng ngày.

Dưới đây là một số đặc điểm nổi bật của Kinh Nikaya:

  • Tính thực tiễn: Các bài kinh trong Kinh Nikaya mang tính thực tiễn cao, hướng dẫn chúng ta cách thức sống một cuộc sống an lạc và thanh tịnh.
  • Tính giản dị: Lời văn trong Kinh Nikaya dễ hiểu, dễ nhớ, phù hợp với mọi trình độ học thức và hoàn cảnh.
  • Tính logic: Các bài giảng trong Kinh Nikaya được trình bày một cách logic và chặt chẽ, giúp chúng ta dễ dàng tiếp thu và thấu hiểu.
  • Tính phổ quát: Giáo lý trong Kinh Nikaya mang tính phổ quát, phù hợp với mọi nền văn hóa và xã hội.

Kinh Nikaya là một kho tàng tri thức vô giá đối với những ai muốn tìm hiểu và thực hành Phật giáo. Việc nghiên cứu và tu học theo Kinh Nikaya sẽ giúp chúng ta đạt được sự giác ngộ và giải thoát khỏi mọi khổ đau.

Sắp xếp:

135. Tiểu kinh Nghiệp phân biệt

(Cùlakammavibhanga sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) Jetavana (Kỳ-đà-lâm), tại tinh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Rồi thanh niên Subha Todeyyaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn... Xem thêm

Kinh Trung Bộ

136. Ðại kinh Nghiệp phân biệt

(Mahàkammavibhanga) Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn ở Rajagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng sóc. Lúc bấy giờ, Tôn giả Samiddhi trú tại một cái cốc trong rừng. Rồi du sĩ ngoại đạo Potaliputta... Xem thêm

Kinh Trung Bộ

137. Kinh Phân biệt sáu xứ

(Salàyatanavibhanga sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tinh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo” –“Bạch Thế Tôn”. Các vị Tỷ-kheo... Xem thêm

Kinh Trung Bộ

138. Kinh Tổng thuyết và Biệt thuyết

(Uddesavibhanga sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tinh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Tại đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo”. –“Bạch Thế Tôn”. Các vị Tỷ-kheo... Xem thêm

Kinh Trung Bộ

139. Kinh Vô tránh phân biệt

(Aranavibhanga sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn trú ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo”. — “Bạch Thế Tôn”. Các... Xem thêm

Kinh Trung Bộ

140. Kinh Giới phân biệt

(Dhàtuvibhanga sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn du hành ở xứ Magadha (Ma- kiệt-đà), đi đến Rajagaha (Vương xá), đến nhà thợ gốm Bhaggava; sau khi đến nói với thợ gốm Bhaggava: — Này Bhaggava, nếu không... Xem thêm

Kinh Trung Bộ

141. Kinh Phân biệt về Sự thật

(Saccavibhanga sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn ở Baranasi (Ba la nại), Isipatana (chỗ chư Tiên đọa), tại Migadaya (Lộc Uyển). Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo”. — “Bạch Thế Tôn”. Các Tỷ-kheo... Xem thêm

Kinh Trung Bộ

142. Kinh Phân biệt cúng dường

(Dakkhinàvibhanga sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn trú giữa dòng họ Sakka (Thích-Ca), ở Kapilavatthu (Ca-ty-la-vệ), tại tinh xá Nigrodha (Ni-câu-luật Thọ Viên). Rồi Mahapajapati Gotami (Củ đàm Nữ Ma-ha-ba-xà-bà-đề), đem theo một cặp y mới, đi... Xem thêm

Kinh Trung Bộ

143. Kinh Giáo giới Cấp Cô Ðộc

(Anàthapindikovàda sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn trú ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana, (Kỳ-đà Lâm), tại tinh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ, cư sĩ Cấp Cô Ðộc bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.... Xem thêm

Kinh Trung Bộ

144. Kinh Giáo giới Channa

(Channovàda sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn ở Rajagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc-lâm), tại chỗ nuôi dưỡng sóc (Kalandakanivapa). Lúc bấy giờ Tôn giả Sariputta (Xá lợi phất), Tôn giả Mahacunda (Ðại Chu-na) và Tôn giả Channa... Xem thêm

Kinh Trung Bộ

145. Kinh Giáo giới Phú-lâu-na

(Punnovàda sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà-Lâm), tại tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Rồi Tôn giả Punna (Phú-lâu-na), vào buổi chiều, từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến... Xem thêm

Kinh Trung Bộ

146. Kinh Giáo giới Nandaka

(Nandakovàda sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn trú ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà-lâm), tại tinh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Rồi Mahapajapati Gotami cùng với khoảng năm trăm Tỷ-kheo-ni đi đến bên Thế Tôn; sau khi... Xem thêm

Kinh Trung Bộ

×