– Thưa đại đức, có phải Đức Phật thuyết rằng: “Tất cả chúng sanh hằng rùng mình sợ hãi khi nghĩ đến oai lực của diêm chúa, của tử thần” ?
– Đúng như thế.
– Và cũng chính Đức Thế Tôn có thuyết rằng: “Bậc A-la-hán là bậc đã chấm dứt hoàn toàn sợ hãi” ?
– Đúng như thế.
– Đại đức có thấy là câu pháp ngôn trước mâu thuẫn với câu pháp ngôn sau chăng?. Nếu “tất cả” chúng sanh đều khiếp sợ sự tai hại và khiếp sợ sự chết – thì tại sao các vị A-lahán lại không khiếp sợ sự tai hại và không khiếp sợ sự chết? Đại đức có thể giải nghi vấn đề ấy cho trẫm được không?
– Tâu đại vương! Bậc A-la-hán đâu phải là chúng sanh? Các ngài đã cắt đứt con đường trở lại với tam giới, không còn cấu sanh, đã dứt tuyệt vô minh phiền não, không còn nhân quả chi phối; đã ở ngoài thiện ác thế gian, đã cắt đứt trọn vẹn mọi trói buộc – thì các ngài đâu còn sanh khởi tâm niệm luyến ái trần thế – mà lại gọi là chúng sanh được?
– Đành rằng thế, nhưng tại sao Đức Tôn Sư lại bảo là “tất cả”!. “Tất cả” nghĩa là không loại trừ một ai, thì sao lại loại trừ các bậc A-la-hán khi các ngài còn mang thân tâm hữu vi này?
– Đại vương! “tất cả” nhưng có loại trừ là một lập ngôn bình thường, đại vương cũng không hiểu sao?
– Trẫm chưa hiểu lập ngôn như thế? Đại đức có thể cho nghe ví dụ chăng?
– Có thể được, tâu đại vương! Ví như đại vương có những vị quan trung thành, mẫu mực, liêm khiết, là người đáng tin cậy. Hôm kia, có việc về tài chánh và quốc phòng, đại vương ra thông cáo cho nhân dân trong quốc độ rằng: “Tất cả mọi người dân trong quốc độ, tùy theo tuổi tác, chức vụ, nghề nghiệp… ai ai cũng phải đóng thuế đinh, thuế thân, thuế chi phí quốc phòng .v.v… Nếu ai bất tuân mà trốn thuế, khai man, lậu thuế hoặc cưỡng lệnh, hay nộp không đúng kỳ hạn thì phải bị trọng hình!”. Lệnh được ban ra, sau đó, đức vua cắt cử những vị quan thanh liêm của đại vương phân bố đi các nơi để thâu thuế. Đại vương nghĩ thế nào? Tất cả nhân dân, nghĩa là ai ai cũng phải đóng thuế, nhưng những vị quan của đại vương họ có đóng thuế chăng?
– Họ đi thâu thuế thì sao họ lại phải đóng thuế? Phải loại trừ họ ra chứ?
– Vậy, dầu đại vương bảo là “tất cả” nhưng tại sao ở đây lại “loại trừ” những vị quan liêm khiết của đại vương?
Đức vua Mi-lan-đà nín lặng.
– Lại nữa – Đại đức Na-tiên nói tiếp – khi lệnh của đại vương được ban ra, tất cả nhân dân đều khiếp sợ uy lực của đại vương, khiếp sợ trọng hình – nhưng những vị quan của đại vương có khiếp sợ uy lực của đại vương, có khiếp sợ trọng hình chăng?
– Họ đi thi hành nhiệm vụ thì làm sao lại sợ hãi như vậy được!
– Và như vậy, dầu nói là “tất cả” nhưng vẫn có trường hợp “loại trừ” đấy – Đại vương đã hiểu rõ cách lập ngôn bình thường ấy chưa?
Đức vua Mi-lan-đà cười vui vẻ:
– Rất là chết lý, chẳng tranh cãi với đại đức chỗ nào được cả. Nhưng giá như đại đức tìm cho trẫm một ví dụ cụ thể nữa thì trẫm mới thật sự khâm phục!
– Có thể được, tâu đại vương! Ví như có ông xã trưởng kia muốn triệu tập một cuộc họp tại hội trường lớn, bèn cho người thông báo rằng: “Yêu cầu toàn dân đều phải đi họp đông đủ, bất kể gái trai, già trẻ, nếu ai bất tuân sẽ bị phạt”. Sau khi thông báo rồi, mọi người trong xã lũ lượt kéo đến đầy đặc cả hội trường. Những người có trách nhiệm bèn nói với ông xã trưởng rằng: Thưa ngài, tất cả dân chúng trong thôn đều đã tụ họp đầy đủ rồi, ngài hãy bắt đầu cuộc họp là vừa phải lẽ!
Tâu đại vương! Cuộc họp ấy thế là đầy đủ tất cả mọi người trong thôn, chẳng hay có “ngoại trừ” người nào không?
Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười:
– Chắc là phải có “ngoại trừ” chứ! Đó là các ông già, bà lão đi không nổi, các ấu nhi, trẻ sơ sinh, một số người do bận việc coi nhà cửa, số người khác đi vắng, lại còn người tật nguyền và ốm bệnh nữa. Rõ là rất nhiều kẻ phải “ngoại trừ” vậy, dầu là cuộc họp đầy đủ “tất cả” toàn dân!
Đại đức Na-tiên cũng mỉm cười:
– Cảm ơn đại vương! Thế là đại vương đã nắm rất rõ vấn đề! Đại vương đã hiểu rõ “tất cả” chúng sanh, nhưng “ngoại trừ” các bậc A-la-hán không kể vào trong nhóm chúng sanh ấy.
– Thế nhưng trẫm vẫn còn một sự thắc mắc khác nữa!
– Xin sẵn lòng hầu đáp đại vương!
– Tất cả chúng sanh đều phải khiếp sợ sự tai hại, khiếp sợ uy lực của tử thần, ngoại trừ các bậc A-la-hán. Nhưng các chúng sanh hiện sống trong địa ngục thì sao, họ có sợ hãi diêm chúa không?
– Chúng sanh ở địa ngục vẫn sợ hãi diêm chúa đấy, tâu đại vương!
– Chẳng lẽ nào! Những chúng sanh ở địa ngục họ đã chịu đựng quá nhiều đau khổ rồi. Kẻ thì bị thiêu đốt, kẻ thì bị nấu trong chảo dầu sôi, kẻ thì bị co quắp thân thể vì đau đớn do bàn chông, do lũ đầu trâu mặt ngựa hành hạ! Ôi! Vô vàn sự thống khổ mà chúng sanh ở địa ngục phải chịu đựng. Đáng lẽ họ mong được chết sớm, chết mau, vì chết đi để khỏi bị hành hạ nữa, khỏi phải bị thọ khổ nữa. Họ mà còn sợ hãi diêm chúa là điều mà trẫm không thể hiểu được, thưa đại đức!
– Thắc mắc của đại vương cũng có lý, tuy nhiên, năng lực của sự sợ hãi tử thần nó kinh khiếp hơn tất cả mọi sự sợ hãi khác.
– Thưa, đấy là những sợ hãi gì?
– Ví như sợ hổ cắn, sợ voi dữ, sư tử dữ, cọp dữ, gấu dữ, trâu bò dữ, sợ tai ương, sợ hoạn nạn, sợ luật vua, sợ phép nước, sợ lửa, sợ nước, sợ chông gai, sợ ma-ya, sợ đói, sợ tật bệnh, sợ mộng dữ, sợ bão tố, sợ thiên tai bệnh dịch v.v… Tất cả những sợ hãi ấy, so với sự sợ hãi tử thần thật không đáng kể! Sự chết có một oai lực vô song, thậm chí ở địa ngục thống khổ như vậy mà chúng sanh ở đấy vẫn sợ sự chết như thường!
– Đại đức hãy cho nghe ví dụ, may ra trẫm hiểu được điều phi lý ấy!
– Thưa vâng, ví như có một người bị mụt nhọt to lớn, đau nhức hành hạ ngày đêm. Thầy thuốc bảo rằng, cái mụt nhọt ấy phải mổ mới lành bệnh được. Xong, ông thầy thuốc lấy đồ nghề giải phẩu ra. Ông ta lấy ra một con dao bén ngọt, sắc lạnh. Ông ta mài con dao trên đá năm, bảy lần rồi hơ trên lửa… ông ta tay nắm chặt con dao đỏ rực từ từ bước tới chỗ bệnh nhân, đưa tay trái nắm chặt xung quanh chỗ mụt nhọt ấy. Lưỡi dao sáng loáng đưa lên! Tâu đại vương! Khi ấy không biết người bị mụt nhọt có cảm thấy sợ hãi không?
– Chắc ai cũng có sự sợ hãi, thưa đại đức!
– Người mụt nhọt bị hành hạ đau đớn ngày đêm ấy cũng tương tự như chúng sanh bị trả quả kinh khiếp trong địa ngục vậy. Mặc dầu mổ hết đau, nhưng thấy mổ vẫn sợ hãi như thế nào – thì địa ngục cũng như thế: Chết thì hết khổ nhưng vẫn sợ chết như thường, tâu đại vương!
– Trẫm đã thông mọi lẽ rồi – nhưng vẫn còn muốn nghe thêm ví dụ nữa.
– Thưa vâng, ví như có người bị rắn độc cắn, đau đớn dữ dội, thân hình co quắp, mặt xám xanh, miệng sùi bọt mép. Có ông thầy rắn có bùa phép, điều khiển được rắn độc như ý muốn. Ông ta sau khi làm phép, con rắc độc ngoan ngoãn bò đến người bị nạn, thò miệng vào vết thương để hút nọc độc ra! Đại vương nghĩ thế nào, dù nạn nhân bị đau đớn dữ dội, nếu hút được nọc độc ra là giải thoát được cơn đau ấy, nhưng khi thấy rắn độc bò đến, thò miệng vào vết thương của mình, người kia có sợ hãi không?
– Thưa, lẽ thường thì cũng cảm thấy sợ sệt vậy.
– Chúng sanh ở địa ngục cũng thế, tâu đại vương! Tuy chết là hết khổ, nhưng vẫn hãi sợ tử thần với lưỡi hái đến cướp mạng sống thê thảm của họ đi!
– Hoàn toàn đồng ý với kiến giải lẫn những ví dụ cụ thể, sống động của đại đức.
* * *
(Trích “Mi Tiên Vấn Ðáp” – “Milinda Panha” )
Dịch giả: Hòa thượng Giới Nghiêm (Maha Thera Thita Silo)