Khi dứt các câu hỏi và đáp giữa đức vua Mi-lan-đà và đại đức Na-tiên, ngay lúc ấy, phát sanh hiện tượng phi thường là quả địa cầu dày bốn mươi do tuần rung động, rung chuyển dữ dội, sấm chớp ở lưng trời xẹt chiếu khắp các hướng. Trên hư không, chư thiên rải hoa cúng dường. Trời đại phạm thiên phát tâm hoan hỷ, không hết lời ca ngợi, tán dương. Sóng giữa biển khơi dâng lên cao, ì ầm không ngớt.
Đức vua Mi-lan-đà, bá quan, cung phi mỹ nữ, quân lính theo hầu đồng quỳ xuống chắp tay đảnh lễ rất thành kính.
Thật là một sự kiện trọng đại đối với đức vua, vì qua cuộc vấn đáp, ngài đã lãnh hội được biết bao nhiêu điều cương yếu của giáo pháp, đã làm cho yên lặng tất cả mối hoài nghi. Đức vua vô cùng hoan hỷ, đức tin thanh khiết đối với Tam Bảo được củng cố, tăng trưởng, ngài rất ngưỡng mộ oai đức của bậc xuất gia phạm hạnh.
Hiện giờ, bao nhiêu ngã chấp của đức vua đều tiêu tan. Bản chất ngạo mạn, cứng đầu, khoe khoang, coi trời đất không ra gì của ngài cũng đã chấm dứt.
Như rồng chúa có rất nhiều thần lực, khi đã nhổ răng và bẻ vuốt đi rồi thì không còn chất độc để tác hại ai được nữa, đức vua chắp tay cung kính:
– Kính bạch đại đức Na-tiên! Tất cả những câu hỏi của trẫm đưa ra, có một số câu rất khó, thuộc trình độ của Phật, thế mà ngài đã giải đáp rất minh bạch, rành rẽ, khúc chiết. Trong giáo hội của Đức Tôn Sư, từ xưa đến nay, ngoại trừ đức Pháp chủ Xá-lợi-phất ra, có lẽ không ai giải đáp nỗi. Ngài đúng là bậc có trí tuệ vô song vậy.
Trong thời gian vừa qua, khi đặt những câu hỏi, khi đưa ra vấn đề hoặc những khi hỏi ngược lại; dù vô tình hay cố ý, nếu có chỗ nào trẫm thất lễ, khiếm khuyết, xin ngài rộng lòng bi mẫn hỷ xả; và trẫm cũng xin cung kính được sám hối.
Kính bạch đại đức! Xin ngài hãy chứng minh và nhận biết cho trẫm là người quy y Tam Bảo, kể từ ngày nay trở đi, xin ngài là nơi nương nhờ cho đến trọn đời.
Đại đức Na-tiên im lặng nhận lời, trao truyền quy giới cho đức vua Mi-lan-đà; ngài nói ít lời sách tấn, khuyến hóa, dạy nhà vua hãy sống thuần thành là một người con Phật, kính tín Tam Bảo và chăm lo hạnh phúc đến cho bá tánh.
Thời gian sau, đức vua Mi-lan-đà cho kiến tạo một ngôi chùa lấy tên là Mi-lan-đà dâng cúng đến đại đức Na-tiên. Kể từ đó, Chư Tăng mười phương vân tập về chùa này rất đông. Và đức vua là người hết lòng phục vụ, hộ độ đến Tăng-già rất đầy đủ.
Càng ngày dường như giáo pháp cao thượng càng thấm sâu vào đời sống, đức vua cảm thấy không còn thích thú đến vương vị, phú quý hay quyền lực nữa. Ngài bèn truyền ngôi cho hoàng tử để có thể có đủ thì giờ chiêm nghiệm giáo pháp nhiệm mầu. Ngài thấy thật rõ rằng, thế gian quả là thấp thỏi, hạ liệt, người ta hằng tìm cho mình những thú vui ngũ dục tầm thường. Quả thật, thế gian này bị chi phối bởi ba định luật vô thường, khổ và vô ngã; chẳng có gì tồn tại chắc bền, chẳng có gì là thực, đáng gọi là nên đam mê, thích thú. Ở đâu cũng thấy khổ, thấy mê lầm, thấy tội, thấy dục, thấy lửa cháy… Ngài để tâm tư quán xét mười một tầng của cõi dục giới, gồm bốn ác đạo, người và sáu tầng trời dục giới. Rồi ngài lại quán xét, tư duy mười sáu tầng trời phạm thiên hữu sắc, luôn cả bốn tầng trời vô sắc; ngài cảm thấy rất rõ ở trong tâm rằng, chẳng có nơi nào xứng đáng để cho kẻ trí nương trú. Nơi này là dục thô thiển, phiền não thô thiển. Nơi kia là dục vi tế, phiền não vi tế. Ở đâu cũng vô thường, khổ não, vô ngã. Ở đâu cũng quanh quẩn lui tới trong luân hồi sinh tử.
Cái đô thành pháp bảo, cái vương quốc của giống dòng thượng đẳng, tức là nơi hạnh phúc chân thật, mới xứng đáng cho kẻ trí kiếm tìm. Thực hiện con đường ấy đòi hỏi sự gian nan, kiên trì; và nhất là phải từ bỏ thế gian, phải khoác phẩm mạo sa môn theo chân đại đức Na-tiên!
Nghĩ là làm. Thế rồi, một đêm kia, không cho ai hay biết, đức vua Mi-lan-đà lặng lẽ rời bỏ hoàng cung, đổi hoàng bào lấy chiếc áo khoác của người khất sĩ, tìm đường xuất gia, sau đó sống đời không nhà cửa của một sa môn chân chính.
Vốn đã trang bị cho mình một pháp học uyên thâm, vị sa môn này không mấy khó khăn khi chuyển qua pháp hành. Nhờ sự tinh cần, kiên trì tiến tu chỉ tịnh, quán minh; không bao lâu sau, ngài đắc giải thóat bảo cái trắng làm cho tỏ ngộ Niết-bàn, thành bậc A-lahán vô sanh.
Nói tóm lại, nhờ trí tuệ, đức vua Mi-lan-đa không ngớt tầm cầu học hỏi, tra vấn, thao thức mà duyên may gặp được đại đức Na-tiên. Nhờ gặp đại đức Na-tiên, một bậc đại trí tuệ, mà trí tuệ của đức vua Mi-lan-đà đã được phát huy, tăng trưởng. Và sau rốt, cũng nhờ trí tuệ ấy mà đức vua Mi-lan-đà đã thành tựu được phần thưởng tôn vinh, cao quý nhất của kiếp người – giải thóat khỏi phiền não sinh tử – khó tìm, khó kiếm, nan hành, nan đắc.
Vì lãnh hội được giá trị cao cả, ưu thắng của trí tuệ ấy, các bậc A-xà-lê đã trước tác một kệ ngôn, tán dương đức tính ưu việt của trí tuệ như sau:
“Thế gian hằng tán dương, ca ngợi trí tuệ. Nhờ trí tuệ mới thấu triệt được chánh pháp và trú vững trong chánh pháp. Trí tuệ chấm dứt tất thảy mọi hoài nghi để nếm thưởng được hương vị của pháp.Chánh niệm có mặt ở đâu thì trí tuệ phát sanh ở đấy. Chánh niệm trú ở pháp nào thì trí tuệ cũng trú ở pháp ấy. Người có trí tuệ xứng đáng thọ nhận sự cung kính, cúng dường. Người có trí tuệ là người phi thường, quý báu – trên thế gian không ai quý báu hơn. Cúng dường trí tuệ, cung kính trí tuệ giống như cúng dường và cung kính bảo tháp thờ các vị A-la-hán vậy.”
Bộ kinh Mi-lan-đà sở vấn, tức là bộ kinh ghi lại những câu hỏi của đức vua Mi-lan-đà và những câu đáp của đại đức Na-tiên được chấm dứt ngang đây.
-HẾT-
(Trích “Mi Tiên Vấn Ðáp” – “Milinda Panha” )
Dịch giả: Hòa thượng Giới Nghiêm (Maha Thera Thita Silo)