Bài 21: Bốn duyên và sáu nhân

04/08/2023 1.319 lượt xem

Thân thị hiện

Nếu Thức duyên Danh Sắc thì Trí duyên gì? Phàm phu có Danh Sắc, tức có thân, có tâm. Bồ Tát cũng có thân, có tâm như vậy. Bụt cũng có thân, có tâm sau khi thành đạo. Ta đâu có cần hủy diệt thân và tâm đi thì mới là có giải thoát? Nói về các vị Bồ Tát chúng ta dùng danh từ Thân Thị Hiện. Chúng ta hãy quán tưởng Quan Thế Âm thị hiện ra hình thể bà mẹ xinh đẹp. Thân hình bà cũng có mắt, tai, mũi, lưỡi và ý. Nhưng thân tâm đó không có tính chất của Vô Minh, của Hành, của Thức. Thân tâm đó là để thực hiện ý nguyện độ sinh, giác ngộ. Bồ Tát Quan Thế Âm có thể hóa hiện thành một nhà chính trị, hay thành một em bé… Kinh nói rằng tình thương, có thể được thể hiện bằng muôn vạn cách. “Ưng dĩ trưởng giả thân đắc độ giả, tức hiện trưởng giả thân nhi vị thuyết pháp. Ưng dĩ đồng nam, đồng nữ thân đắc độ giả, tức hiện đồng nam, đồng nữ thân nhi vị thuyết pháp.” Nếu cần hiện ra một vị trưởng giả thì Bồ Tát Quan Thế Âm có thể hiện ra hình thức của một trưởng giả mà thuyết pháp. Nếu cần hiện ra một chú bé, hay là một cô bé để độ đời thì Quan Thế Âm sẽ hiện thành một chú bé, hay là một cô bé để độ đời.

Cho nên Bồ Tát và Bụt đều có thể hiện thân để độ đời, và các vị cũng cần có Danh, có Sắc, có thân, và có tâm. Thành ra chúng ta đâu cần bỏ thân và tâm đi mới giải thoát. Bất cứ một Danh Sắc nào có tác dụng tạo tác được từ bi, hiểu biết, được hạnh phúc, đều là (4) Thân Thị Hiện của Bụt. Dầu thân thể đó yếu ốm, và nghèo khổ nhưng vẫn có tác dụng tạo được tình thương và sự hiểu biết thì đó cũng là thân Bồ Tát, gọi là (5) Thân Thọ Dụng (sambhogakaya). Bất cứ một cái thân, một tập hợp nào của ngũ uẩn, có Danh Sắc nhưng trong đó không còn chất liệu Vô Minh, mà lại có chất liệu của Minh, của Bồ đề tâm, của Tứ Trí, thì đều là Thân Thọ Dụng, là phương tiện để hành đạo.

Ngày xưa tôi có đọc một cuốn tiểu thuyết, không nhớ tên tác giả. Ông kể chuyện một người đi vào rừng. Người này sống trong truyền thống Thiên Chúa giáo nhưng không tin tưởng Chúa. Ông đi vào rừng ở Phi Châu săn bắn, lạc đường, không tìm được lối ra. Sợ quá, lúc đó ông ta mới muốn cầu cứu Chúa. Vì ông không có đủ đức tin, nên ông cầu cứu bằng một giọng bất kính. Ông nói: “Lạy Chúa! Nếu mà Chúa có thật thì hiện ra để cứu tôi coi nào!” Lúc đó ông nghe tiếng sột soạt. Từ sau bụi cây xuất hiện một người da đen. Người da đen đó đưa ông ra khỏi rừng, và ông được cứu thoát! Nhưng ông này về nhà và ghi trong nhật ký: “Tôi cầu Chúa. Chúa đâu không thấy mà chỉ hiện ra một thằng mọi đen.” Câu đó viết bằng tiếng Pháp, dùng chữ nègre có tính kỳ thị mầu da, phải dịch là thằng mọi cho sát nghĩa “J’ai prié Dieu, mais il m’est arrivé un nègre.” Tâm ông này chứa chất Vô Minh. Người Phi Châu đó là Thọ Dụng Thân, là Báo Thân của Lòng Từ Bi để đưa ông ta ra khỏi tình trạng khó khăn; đó là Chúa chứ ai khác? Từ bi thị hiện ra dưới nhiều hình thức. Trong rừng rậm Phi Châu, Chúa đã hiện ra thành một người da đen. Ông kia không thấy Chúa vì không thấy được tình thương. Lại nói bằng giọng mỉa mai như thế thì chắc không bao giờ ông ta có cơ hội để tiếp xúc với Chúa, hay với Bụt.

Ngày hôm qua trong khi đi thiền hành, tôi tự nhiên nảy ý muốn kể chuyện Bụt Thích Ca đi với Thầy Svastika về Việt Nam thăm để xem Đạo Bụt ở đó bây giờ ra sao. Hai thầy trò Bụt tới Hà Nội, vào thăm các chùa. Tất nhiên là các thầy ở chùa đâu biết đây là Bụt. Không biết các thầy sẽ đón tiếp Bụt như thế nào? Tại vì trong đầu các thầy đã có sẵn hình ảnh về Bụt. Ông này không có hào quang bằng đèn neon phía sau đầu thì đâu phải là Bụt? Ông này đi chân đất, mặc áo cũ, không hoạt bát gì cả. Có thể là các thầy ở chùa không nhận ra đó là Bụt. Họ sẽ hỏi: “Giấy di chuyển đâu? Chứng minh thư đâu?” Tôi tưởng tượng lúc đó Bụt mới bảo thầy Svastika ra ngoài Tam Quan, để hai thầy trò bàn bạc. Tôi sẽ viết một cuốn truyện như vậy, kể chuyện Bụt với một vị thị giả đi từ Bắc vào Nam, tới các chùa, gặp các thầy, các đạo hữu, xem cách các thầy ăn cơm, uống nước, đi, đứng, nằm, ngồi như thế nào. Bụt sẽ biết gia tài của Bụt để lại 2500 năm nay còn được bao nhiêu. Chuyện này là chuyện có thật. Bụt có thể thị hiện dưới hình dáng của một người du khách, tìm tới để xem chúng ta tu tập như thế nào. Có thể Bụt đã từng tới Làng Mai, Bụt đã từng gặp các sư chú, sư cô, các đạo hữu ở Làng. Bụt đã biết là chúng ta tu hành hay hay dở tới mức nào rồi.

Bụt đâu phải ở trên mây. Bụt ở ngay trong tâm của chúng ta. Dù ta có thân của Bụt, và tâm Bụt, ta cũng vẫn còn có Xúc. Bụt cũng uống nước và Bụt cũng biết nước nóng hay nước lạnh. Bồ tát cũng cần mặc áo cho ấm. Mùa lạnh, Bồ tát cũng quàng khăn cổ, tại vì Bồ tát biết nếu không choàng khăn cổ thì bị cảm, rồi phải cạo gió. Vì Xúc được phát hiện trong chánh niệm và tuệ giác nên Xúc này là (6) Xúc Thanh Tịnh. Và khi có sự tiếp xúc giữa sáu căn và sáu trần thì cũng có Thọ. Thọ đây là (7) Thọ Thanh Tịnh. Như là tất cả mọi người. Nhưng trong những tình trạng đó, bồ tát không vướng mắc. Có Trí rồi, với cái Thọ Dụng Thân này, bất cứ một tiếp xúc nào cũng có chánh niệm, cũng có thanh tịnh. Cho nên bất cứ cái Thọ nào cũng có thanh tịnh, có chánh niệm. Sẽ không có Ái mà có Ba trong bốn Vô Lượng Tâm: (8) Từ, Bi, và Hỷ.

Khi có tiếp xúc chúng ta thấy được những cảm thọ: lạc thọ, khổ thọ, và xả thọ. Thấy người khổ đau ta phát sinh trong tâm năng lượng của Từ, muốn giúp họ có niềm vui chân thật, và năng lượng của Bi, muốn làm cho họ tiêu tan nỗi khổ. Ta muốn làm cho họ có niềm vui, có hạnh phúc. Đó là tâm Hỷ. Và Tâm Xả nghĩa là tâm không vướng mắc. Xả đây tức là không bị trói buộc bởi những hình ảnh, và những âm thanh do Xúc và Thọ tạo ra. Xả không phải là sự dửng dưng, mà là khả năng giữ tâm được tự do, không bị cuốn theo bên này hay bên khác. Khi có xả thì người thương và kẻ ghét được coi như nhau. Xả là Bất Nhị. Chân tinh thần của Xả là (9) Vô Nguyện. Xả tức khả năng thấy được tính tương tức, cái này là cái kia. Thí dụ Vô Minh và Minh. Chúng ta phải thực tập Xả, tức là đừng chạy trốn Vô Minh để đi tìm Minh. Vì Minh phải tìm trong Vô Minh.

Nhắc lại chuyện đời Lý, thế kỷ thứ XII, có một thiền sinh nghe vị thiền sư nói là phải làm thế nào để thoát ly sinh tử thì mới xứng đáng với chí nguyện xuất gia. Vị thiền sinh hỏi: “Bạch Thầy, tìm cái không sinh tử ở chỗ nào?” Thầy nói: “Tìm ngay ở trong chỗ sinh tử.” Bỏ sinh tử đi tìm Niết bàn là không có.

Xả là tinh thần Bất Nhị, là tự do, là thảnh thơi. Cũng là Vô Nguyện, không chạy theo gì hết. Chính trong tinh thần tự do, không chạy chọt cầu tìm mà cõi khổ đau sẽ trở thành Tịnh Độ. Ta thoát được Hữu là vì ta đã biến Hữu của Hữu Vô, của Thương Ghét thành Diệu Hữu. (10) Diệu Hữu và Chân Không thoát ra khỏi ý niệm Hữu và Vô. Nếu cần phải thị hiện đản sanh thì thị hiện đản sanh. Thị hiện đản sanh cũng là thị hiện lão tử. Lão tử thì lão tử, nhưng không khổ đau, đó là cái nhìn của Bụt và các vị Bồ tát. Nếu quả thực đã có chất liệu của giác ngộ, thì sinh cũng vậy, mà tử cũng vậy, đều là thị hiện, không có cái gì thay đổi cả. Đợt sóng có lên hay có xuống thì nó vẫn là nước. Đứng về phương diện hiện tượng thì giống như là có Sinh, có Diệt, có Có, có Không. Đứng về phương diện bản thể thì không có Sinh Diệt, không có Có Không; tất cả đều là thị hiện. Đó là (11) Vô Sinh. Sinh là thị hiện Sinh, Diệt là thị hiện Diệt. Và đây là Niết Bàn trong hiện tại (12) Hiện Pháp Niết Bàn.

Mười Hai Nhân Duyên

Tiêu cực Tích cực
Vô Minh Minh
Hành Bồ Đề Tâm (Đại Nguyện
Thức Trí
Danh Sắc Thân Thị Hiện
Lục Nhập Thân Thọ Dụng
Xúc Xúc Thanh Tịnh
Thọ Thọ Thanh Tịnh
Ái Từ Bi Hỷ
Thủ Tự Tại, Vô Nguyện (Xả)
Hữu Diệu Hữu Chân Không
Sinh Vô Sinh
Lão Tử Hiện pháp Niết Bàn

Mười Hai Nhân Duyên như ta biết, thường được giảng dạy trên mặt tiêu cực. Chúng ta phải học, và thực tập Mười Hai Nhân Duyên về phương diện tích cực. Những danh từ chúng ta dùng hôm nay là để diễn bày Mười Hai Nhân Duyên đứng về phương diện tích cực. Chúng ta thấy rằng thuyết nhân duyên là để nói về thế giới hiện tượng. Thấy được Mười Hai Nhân duyên về mặt tích cực thì, ta đồng thời thấy được Bản Môn của chúng. Chúng ta sẽ tiếp xúc được với Bản Môn.

Nói tóm lại, khi học về Mười Hai Duyên phần, ta đừng nên diễn bày như một chủ thuyết để giải thích luân hồi sinh tử. Ta hãy tập quán chiếu để thấy liên hệ giữa Mười Hai chi phần này. Để trong đời sống hằng ngày ta có thể tu tập cho chất liệu của Vô Minh bớt đi và chất liệu của Minh tăng trưởng. Chất liệu của Vô Minh bớt đi thì Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, và Tà Kiến sẽ bớt đi và chất liệu của Từ, Bi, Hỷ, và Xả sẽ tăng trưởng. Tăng trưởng không những ở một chi phần mà đồng thời trong cả Mười Hai chi phần. Hễ một chút Vô Minh được trị diệt thì tất cả Mười Một chi phần kia đều được thừa hưởng. Khi ta mỉm được một nụ cười hiểu biết thì trong cả Mười Hai chi phần đều có sự thay đổi, tại vì chất liệu của Minh đã đi vào để thay thế cho chất liệu của Vô Minh. Một tâm niệm từ Đi biểu hiện thì tất cả Mười Hai chi phần đều sáng lên lập tức.

Cho nên giữ chánh niệm và hộ trì sáu căn là chìa khóa của sự thực tập. Nếu thực tập hộ trì sáu căn thì trong Xúc, ta sẽ có chánh niệm về Xúc, ta sẽ có Xúc Thanh Tịnh. Nếu sáu căn không hộ trì thì Xúc sẽ không thanh tịnh. Khi có Xúc, và có Thọ thanh tịnh thì ta có chất liệu của Từ, Bi, và Hỷ. Chúng ta sẽ được an trú trong Vô Nguyện, nghĩa là trong xả. Như vậy thế giới của chúng ta càng lúc càng sáng lên tính cách của Diệu Hữu và Chân Không. Tính cách khổ đau của ba cõi (Tam Hữu) sẽ từ từ tiêu diệt để nhường chỗ cho thế giới tương tức, tương nhập của Hoa Nghiêm. Trong thế giới Diệu Hữu và Chân Không đó, nếu cần đản sanh thì chúng ta đản sanh, nếu cần thị hiện lão tử chúng ta thị hiện lão tử.

Chúng ta hãy học hỏi cho thấu đáo các phép hộ trì và chánh niệm. Đây là những chiếc chìa khóa. Đây chính là phương tiện tháo gỡ. Chúng ta cũng có thân, cũng có sáu căn và sáu trần, chứa chấp Vô Minh, Hành, và Thức. Nhưng khi đưa chánh niệm vào, và thực tập hộ trì sáu căn trong Xúc và trong Thọ, chúng ta tránh được Ái, Thủ, và Hữu, chuyển niệm thanh tịnh, thực tập Từ, Bi, Hỷ, Xả, Vô Nguyện. Tinh hoa của giáo lý Mười Hai Nhân Duyên nằm ở đó. Phải học, phải hành và phải trình bày giáo lý đó như thế nào để cho sự học hỏi và, hành trì chuyển hóa được đời sống hằng ngày của chúng ta.

(Trích “Trái tim của Bụt”)
Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Trang: 1 2 3 4 5 6

×