Sau khi Sơ Tổ (Đạt Ma)⁶ trao truyền pháp y cho Huệ Khả⁷, đúng chín năm sau ngài thị hiện nhập Niết Bàn và được chôn sau sườn núi Hùng Nhĩ, mé nước Ngô. Sau đó ba năm, sứ giả nước Ngụy là Tống Vân vâng lệnh đi sứ sang Tây Vực, khi trở về đến ngọn Thông Lãnh, Tống Vân thấy Tổ trên vai quảy một chiếc dép và bảo với ông ta rằng:
– Chủ ông đã qua đời! Còn ta về Tây Quốc.
Vân ban đầu chẳng hiểu. Lúc về đến kinh đô quả nhiên thấy vua băng hà. Về sau, ông tâu lên vua Ngụy Hiếu Trang về việc đã thấy. Vua liền hạ lệnh mở tháp, chỉ thấy còn có một chiếc dép. Vua liền phụng sắc đem thờ ở chùa Thiếu Lâm. Vào niên hiệu Khai Nguyên⁸ thứ 20 (732 T.L.), chiếc dép bị ăn cắp đem về chùa Hoa Nghiêm, sau đó mất luôn.
Viên Đức
⁶ Đạt Ma (460-528): Bodhidarma, Bồ đề đạt ma, Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa và là Tổ thứ 28 Thiền Tông Ấn Độ. Con vua nước Hương Chí ở phía nam Ấn Độ. Xuất gia lúc còn nhỏ, được thấy là Bát nhã đa la truyền tâm ấn. Năm 520, theo đường thủy đến Quảng Châu (Trung Hoa), được Lương Võ Đế mời đến Kim Lăng giảng pháp. Nhận thấy chưa đủ cơ duyên truyền đạo, ngài vào núi Tung Sơn tịnh tu tại chùa Thiếu Lâm. Trong 9 năm diện bích (quay mặt vào tường) và thuyết pháp, ngài đã truyền pháp môn “Thấy tánh thành Phật” là phương pháp tu tập Thiền định. Sau khi truyền tâm ấn cho Huệ Khả, ngài lên đường về Thiên Trúc, giữa đường ngài tịch và được an táng tại núi Hùng Nhĩ Sơn ở Tung Châu. (Có thuyết bảo rằng ngài bị đánh thuốc độc, có thuyết bảo rằng ngài tịch ở Ấn độ vào năm 120 tuổi, lại có thuyết bảo không hề hay biết ngài tịch vào lúc nào…)
⁷ Huệ Khả: (486-593) Tức Huệ Khả, Tổ thứ 2 Thiền tông Trung Hoa. Người Lạc Dương, hiệu là Thần Quang, lại đổi là Tăng Khả rồi Huệ Khả. Mới đầu rất tỉnh thông ngoại điển (Nho, Lão …), sau nghiên cứu Tiểu Thừa và Đại Thừa. Năm 41 tuổi, đến chùa Thiếu Lâm xin yết kiến ngài Đạt Ma Tổ sư, tự chặt tay để tỏ lòng chân thành cầu đạo, cuối cùng được ngộ lý và được truyền y bát, làm Tổ thứ 2 Thiền tông Đông Độ.
⁸ Khai Nguyên: Niên hiệu vua Đường Huyền Tông, từ năm 713 – 739.