Lục tổ Huệ Năng

27/12/2024 40 lượt xem

Huệ Năng an trí mẹ xong liền từ giã ra đi, không hơn 30 ngày liền đến Huỳnh Mai lễ bái Ngũ Tổ. Tổ hỏi rằng: “Ngươi từ phương nào đến, muốn cầu vật gì?”. Huệ Năng đáp rằng: “Đệ tử là dân Tân Châu thuộc Lãnh Nam, từ xa đến lễ thẩy, chỉ cầu làm Phật, chớ không cầu gì khác!”. Tổ bảo rằng: “Ông là người Lãnh Nam, lại là người quê mùa, làm sao kham làm Phật?”. Huệ Năng liền đáp: “Người tuy có Nam Bắc nhưng Phật tánh¹¹ vốn không có Nam Bắc, thân quê mùa này cùng với hòa thượng chẳng đồng, nhưng Phật tánh đâu có sai khác”. Ngũ Tổ lại muốn cùng ngài nói chuyện, vả lại thấy đồ chúng hai bên (chung quanh) đông, mới bảo theo chúng làm công tác. Huệ Năng thưa: “Huệ Năng xin bạch hòa thượng; tự tâm đệ tử thường sanh trí huệ, không lìa tự tánh tức phước điển, chưa biết hòa thượng dạy con làm việc gì?”. Tổ bảo: “Kẻ nhà quê nầy, căn tánh rất lanh lợi, ông chớ có nói nữa, đi xuống nhà trù đi”. Huệ Năng lui lại nhà sau, có một người cư sĩ sai Huệ Năng bửa củi, giã gạo, trải hơn 8 tháng. Một hôm, Tổ chợt thấy Huệ Năng, mới bảo: “Ta nghĩ chỗ thấy của ngươi có thể dùng, nhưng sợ có người ác hại ngươi, nên không cùng ngươi nói (chuyện), ngươi có biết chăng?”. Huệ Năng thưa: “Đệ tử cũng biết ý của Thầy nên không dám đến nhà trên, để người không biết”.

Một hôm, Ngũ Tổ bảo các đệ tử: “Tất cả hãy đến, ta nói với các ông: “Người đời sanh tử là việc lớn, các ông trọn ngày chỉ cầu phước điển, chẳng cầu ra khỏi biển khổ sanh tử, tự tánh nếu mê thì phước nào có thể cứu? Các ông, mỗi người hãy đi, tự xem trí huệ của mình, nhận lấy tánh Bát Nhã nơi bản tâm mình, mỗi người làm một bài kệ¹² đến trình cho ta xem, nếu ngộ được đại ý thì ta trao y pháp làm Tổ thứ sáu. Phải nhanh đi, không được chậm trễ, suy nghĩ tức là không trúng. Người kiến tánh ngay lời nói phải đấy, nếu như người nầy dù khi múa dao giữa trận cũng được thấy tánh”. (Đây là dụ cho người lợi căn thấy cơ – tức thấy hoàn cảnh nào đó – thì làm).

Chúng được chỉ dạy, trở về họp bàn với nhau rằng: “Tất cả chúng ta không cần phải lắng lòng dụng ý làm kệ để trình với hòa thượng, đâu có lợi ích gì? Thượng tọa Thần Tú, hiện làm giáo thọ sư, ắt là người được, chúng ta có gắng làm kệ tụng cũng uổng dụng tâm lực”. Mọi người nghe lời nầy, thảy đều nhất tâm, đều nói rằng: “Chúng ta về sau y chỉ thượng tọa Thần Tú, nhọc gì phải làm kệ”.

Thần Tú suy nghĩ: “Các người đều không trình kệ vì ta làm giáo thọ sư cho họ, ta cần phải làm kệ trình lên cho hòa thượng; nếu không trình kệ thì hòa thượng đâu có biết được kiến giải trong tâm ta cạn hay sâu? Ta trình ý kệ, cầu pháp thì tốt, cầu làm Tổ thì xấu, vì đồng với tâm của kẻ phàm, muốn cướp được ngôi vị thánh không khác, nếu chẳng trình kệ thì trọn không được pháp, rất khó! rất khó!”.

Trước nhà của Ngũ Tổ có một hành lang ba gian, Ngũ Tổ nghĩ mời ông Cung Phụng Lư Trân đến vẽ “Lăng Già biến tướng và Ngũ Tổ huyết mạch đồ” để lưu truyền cúng dường. Ngài Thần Tú làm kệ rồi, mấy phen muốn trình, đi đến nhà trước thì trong tâm hoảng hốt, khắp thân đổ mồ hôi, nghĩ trình chẳng được. Trước sau trải qua 4 ngày, đến 13 lần, trình kệ không được. Thần Tú mới suy nghĩ: “Chẳng bằng đến dưới hành lang viết (bài kệ), hòa thượng đi qua xem thấy, nếu chợt bảo rằng hay thì mình ra lễ bái thưa: của Thần Tú làm, nếu nói không kham, thật uổng công ở núi mấy năm, thọ người lễ bái, lại tu đạo gì?”. Canh ba đêm ấy, không cho người biết, Ngài tự cầm đèn viết bài kệ ở vách phương nam để trình chỗ tâm mình thấy được. Bài kệ rằng:

Thân là cội bồ đề,
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn phải lau chùi,
Chớ để dính bụi bặm.

Ngài Thần Tú viết kệ xong, liền trở về phòng, mọi người đều chẳng biết. Thần Tú lại suy nghĩ: “Ngày mai Ngũ Tổ thấy bài kệ, nếu hoan hỉ tức ta cùng pháp có duyên, nếu nói không kham, tự là ta mê, nghiệp duyên đời trước nặng nề, không hợp được pháp, thật là thánh ý khó lường”. Trong phòng suy nghĩ, ngồi nằm chẳng an cho đến canh năm.

Ngũ Tổ đã biết Thần Tú vào cửa chưa được, không thấy tự tánh. Sáng hôm sau, Tổ gọi ông Lư Cung Phụng đến hành lang phía nam để vẽ đồ tướng trên vách, chợt thấy bài kệ, ngài bảo Cung Phụng rằng: “Thôi chẳng cần phải vẽ, nhọc công ông từ xa đến. Trong Kinh có nói: “Phàm những gì có tướng đều là hư vọng”, chỉ để lại một bài kệ nầy cho người tụng đọc thọ trì, y theo bài kệ nầy tu hành thì khỏi đọa trong ác đạo, y bài kệ nầy tu thì được lợi ích lớn, khiến đồ đệ thắp hương lễ bái, cung kính và tụng đọc bài kệ nầy tức được thấy tánh”. Môn nhân tụng bài kệ đều khen: “Hay thay!”.

Đến canh ba, Tổ mới gọi Thần Tú vào trong thất hỏi: “Kệ đó, phải ông làm chăng?”. Ngài Thần Tú thưa: “Thật là con làm, chẳng dám vọng cầu Tổ vị, chỉ mong hòa thượng từ bi xem đệ tử có chút ít trí huệ chăng?”. Tổ bảo: “Ông làm bài kệ nẩy chưa thấy được bản tánh, chỉ đến ngoài cửa, chưa vào được trong cửa, kiến giải như thế tìm Vô Thượng Bồ Đề¹³, trọn không thể được. Vô Thượng Bồ Đề phải được ngay nơi lời đó mà biết bản tâm mình, thấy được bản tánh mình, chẳng sanh chẳng diệt, đối trong tất cả thời mỗi niệm tự thấy, muôn pháp đều không kẹt, một chơn tất cả đều chơn, muôn cảnh tự như như, tâm như như đó tức là chơn thật. Nếu thấy được như thế tức là tự tánh Vô Thượng Bồ Đề. Ông hãy đi, một hai ngày sau, suy nghĩ làm một bài kệ khác đem lại tôi xem, bài kệ của ông nếu vào được cửa, sẽ trao y pháp cho ông”.

Ngài Thần Tú làm lễ lui ra, trải qua mấy ngày, làm kệ cũng không thành, trong tâm hoảng hốt, thần tư bất an, ví như ở trong mộng, đi ngồi không vui. Lại hai ngày sau, có một chú bé đi qua chỗ giã gạo, đọc bài kệ nẩy. Huệ Năng vừa nghe liền biết bài kệ nẩy chưa thấy được bổn tánh. Tuy chưa nhờ chỉ dạy mà sớm đã biết được đại ý, bèn hỏi chú bé rằng: “Tụng đó là kệ gì?”. Chú bé đáp: “Cái ông nhà quê không biết, Đại Sư nói: “Người đời sanh tử là việc lớn, muốn được truyền y pháp, khiến đệ tử làm kệ trình. Ngài xem, nếu ngộ được đại ý, liền trao y pháp làm Tổ thứ sáu. Thượng tọa Thần Tú viết bài kệ Vô tướng ở vách hành lang phía nam, Đại Sư khiến người đều đọc, y kệ này tu, sẽ khỏi đọa đường ác, y kệ nầy tu, sẽ có lợi ích lớn”.

Huệ Năng thưa rằng: “Thượng nhơn, đã hơn 8 tháng, tôi ở nhà trù giã gạo, chưa từng đến nhà trên, mong thượng nhơn dẫn tôi đến trước bài kệ lễ bái”. Chú bé dẫn ngài đến trước bài kệ lễ bái. Huệ Năng bảo: “Huệ Năng không biết chữ, nhờ thượng nhơn vì (tôi) đọc”. Khi ấy có quan Biệt Giá ở Giang Châu họ Trương tên Nhựt Dụng liền to tiếng đọc. Huệ Năng nghe rồi bèn nói: “Tôi cũng có một bài kệ mong Biệt Giá vì tôi viết”. Quan Biệt Giá nói: “Ông cũng làm kệ nữa sao? Việc nầy thật ít có!”. Huệ Năng nói với Biệt Giá rằng: “Muốn học đạo Vô Thượng Bồ Đề, không được khinh người mới học. Kẻ hạ hạ cũng có cái trí thượng thượng, còn người thượng thượng cũng không có ý trí”. Quan Biệt Giá nói: “Ông chỉ tụng kệ, tôi vì ông viết, ông nếu được pháp, trước phải độ tôi, chớ quên lời nầy”. Huệ Năng đọc bài kệ:

Bồ đề bổn vô thụ,
Minh kính diệc phi đài,
Bổn lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai?

dịch:

Bồ đề vốn không cây,
Gương sáng cũng chẳng đài,
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính bụi bặm?

Khi viết bài kệ rồi, đồ chúng thảy đều kinh hoàng, không ai mà chẳng xuýt xoa, mọi người bảo nhau rằng: “Lạ thay! Không thể do tướng mạo mà đoán người, đã bao lâu nay sai nhục thân Bồ Tát làm việc”. Tổ thấy tất cả chúng đều kinh ngạc, sợ có người làm hại Ngài, mới lấy giày xóa hết bài kệ, nói: “Cũng chưa thấy tánh”. Chúng cho là đúng. Ngày kế Tổ lén đến chỗ giã gạo thấy Huệ Năng đeo đá giã gạo, mới bảo rằng: “Người cầu đạo vì pháp quên mình đến thế ư?”. Tổ lại hỏi: “Gạo trắng hay chưa?”. Huệ Năng thưa: “Gạo trắng đã lâu, còn thiếu giần sàng”. Tổ lấy gậy gõ vào cối 3 tiếng rồi đi. Huệ Năng liền hội được ý Tổ, đến khi trống đổ canh ba liền lén vào thất. Tổ lấy cà sa che chung quanh không để người thấy, vì nói kinh Kim Cang, đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, Huệ Năng ngay lời đó đại ngộ, thấy tất cả muôn pháp chẳng lìa tự tánh, mới thưa Tổ rằng:

Hà kỳ tự tánh bổn tự thanh tịnh,
Hà kỳ tự tánh bổn bất sanh diệt,
Hà kỳ tự tánh bổn tự cụ túc,
Hà kỳ tự tánh bổn vô động diêu,
Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp!

Ngũ Tổ biết Huệ Năng đã ngộ được bản tánh mới bảo rằng: “Chẳng biết bổn tâm, học pháp vô ích, nếu biết được bổn tâm mình, thấy được bổn tánh mình, tức gọi là trượng phu, là thầy của trời người, là Phật”. Canh ba thọ pháp, người trọn không biết, Tổ liền truyền pháp đốn giáo và y bát¹⁴, nói rằng: “Ngươi là vị Tổ đời thứ sáu, khéo tự hộ niệm, rộng độ chúng hữu tình, truyền khắp đời sau, không khiến cho đoạn tuyệt. Nghe ta nói kệ:

(Người) hữu tình lai hạ chủng,
Nhơn địa quả diệc sanh,
Vô tình diệc vô chủng,
Vô tánh diệc bất sanh.

Tổ lại bảo: “Xưa Đại Sư Đạt Ma ban đầu đến cõi nầy, người chưa có tin nên mới truyền y nầy để làm tín thể, đời đời truyền nhau, pháp thì dùng tâm truyền tâm, đều khiến cho tự ngộ tự giải. Từ xưa Phật Phật chỉ truyền bản thể, thẩy thẩy thẩm trao bản tâm, y là đầu mối của sự tranh giành, nên dừng ngay nơi ngươi chớ truyền nữa, nếu truyền y nầy thì mạng của người nhận y cũng như sợi chỉ mành. Ông phải đi nhanh e người hại ông”. Huệ Năng thưa: “Bây giờ con phải đi đâu?”. Tổ bảo: “Gặp Ấp Hoài thì dừng, gặp Ấp Hội thì ẩn”. Huệ Năng canh ba lãnh được y bát, thưa: “Huệ Năng vốn là người Nam Trung, không biết được đường đi, làm sao ra được bến đò?”. Ngũ Tổ bảo: “Ông chẳng phải lo, tôi tự đưa ông đi”. Tổ liền đưa đến bến đò Cửu Giang, Tổ bảo lên thuyền, Ngũ Tổ bèn cầm chèo tự chèo. Huệ Năng thưa: “Thỉnh Hòa Thượng ngồi, nên để đệ tử chèo”. Tổ bảo: “Phải là ta độ ông”. Huệ Năng thưa: “Khi mê thì thầy độ, ngộ rồi thì tự độ, độ tên tuy là một nhưng chỗ dùng không đồng. Huệ Năng sanh nơi biên phương, tiếng nói không đúng, nhờ thầy truyền pháp nay đã được ngộ, chỉ nên tự tánh tự độ”. Tổ bảo: “Như thế! Như thế! Về sau Phật pháp do ông mà được thạnh hành, ông đi ba năm, tôi sẽ thệ thế. Nay ông đi an vui, nỗ lực hướng về Nam, không nên nói pháp sớm, Phật pháp sẽ gặp tai nạn”. Huệ Năng từ giã Ngũ Tổ rồi cất bước đi về phương Nam, trong khoảng hai tháng đến ngọn núi Đại Dữu.

Ngũ Tổ trở về, mấy ngày không thượng đường¹⁵, chúng nghi mới đến hỏi: “Hòa Thượng có ít bệnh, ít não chăng?”. Ngài đáp: “Bệnh thì không, mà y pháp đã về phương Nam rồi”. Chúng hỏi: “Ai là người được truyển?”. Tổ bảo: “Huệ Năng”. Chúng liền biết được. Khi đó vài trăm người mới đuổi theo, muốn cướp y bát,

một vị Tăng họ thế tục là Trần, tên Huệ Minh¹⁶, trước là tướng quân bực tứ phẩm, tánh hạnh thô tháo, hết lòng theo tìm, chạy trước mọi người, đuổi kịp Huệ Năng. Huệ Năng ném y bát trên bàn thạch nói: “Y nầy là biểu tín, có thể dùng sức mà tranh sao!”. Huệ Năng liền ẩn trong đám cỏ, Huệ Minh đến cầm y lên mà y không nhúc nhích, mới kêu rằng: “Cư sĩ, cư sĩ! Tôi vì pháp mà đến chớ không phải vì y”. Huệ Năng bèn bước ra ngồi trên bàn thạch. Huệ Minh liền làm lễ thưa: “Mong cư sĩ vì tôi nói pháp”. Huệ Năng bảo: “Ông đã vì pháp mà đến thì nên dứt sạch các duyên, chớ sanh một niệm, tôi vì ông nói”. Huệ Minh im lặng giây lâu. Huệ Năng bảo: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy cái gì là bản lai diện mục của thượng tọa Mình?”.

Huệ Minh ngay câu nói đó liền đại ngộ. Lại hỏi: “Ngoài mật ngữ, mật ý trên, còn có mật ý khác chăng?”.

Huệ Năng bảo: “Vì ông mà nói tức không phải mật vậy, ông nếu phản chiếu thì mật ở bên ông”.

Huệ Minh thưa: “Huệ Minh tuy ở Huỳnh Mai, thật chưa có tỉnh diện mục của chính mình, nay nhở chỉ dạy như người uống nước lạnh nóng tự biết. Nay cư sĩ tức là thầy của Huệ Minh”.

Huệ Năng bảo: “Ông nếu như thế thì tôi cùng ông đồng thờ thầy Huỳnh Mai, khéo tự hộ trì”.

Huệ Minh lại thưa: “Huệ Minh từ nay về sau nhằm chỗ nào đi?”.

Huệ Năng bảo: “Gặp Viên thì dừng, gặp Mông thì ở”.

Huệ Minh liền lễ từ. Huệ Minh trở về, xuống núi bảo những người đuổi theo rằng: “Đi trên những đồi núi nầy trọn không tìm ra tung tích, phải đi qua đường khác tìm”. Cả chúng đuổi theo đều cho là đúng. Huệ Minh về sau đổi tên là Đạo Minh, đó là tránh chữ đầu của tên thầy.

Huệ Năng sau đến Tào Khê lại bị bọn ác tìm đuổi mới ở nơi Tứ Hội tị nạn trong đám thợ săn, trải qua 15 năm, khi đó cùng những người thợ săn tùy nghi nói pháp. Những người thợ săn thường bảo giữ giềng lưới; khi Huệ Năng thấy những con vật mắc lưới đều thả. Mỗi khi đến bữa ăn, hái rau gởi luộc trong nồi thịt, hoặc có người hỏi thì đáp: “Chỉ ăn rau ở bên thịt”. Một hôm, mới suy nghĩ: Thời hoàng pháp đã đến, không nên trọn trốn lánh, bèn đến chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu, gặp Pháp Sư Ân Tông đang giảng kinh Niết Bàn. Khi ấy có gió thổi, lá phướn¹⁷ động, một vị tăng nói: gió động; một vị tăng nói: phướn động; hai người cãi nhau không thôi. Huệ Năng tiến tới nói: “Không phải gió động, không phải phướn động, tâm nhơn giả động”. Cả chúng đều ngạc nhiên. Ân Tông mời Huệ Năng đến trên chiếu gạn hỏi áo nghĩa, thấy Huệ Năng đối đáp, lời nói giản dị mà nghĩa lý rất đúng, không theo văn tự. An Tông nói: “Cư sĩ quyết định không phải là người thường, đã lâu nghe y pháp của Huỳnh Mai đi về phương Nam, đâu chẳng phải là cư sĩ?”. Huệ Năng nói: “Chẳng dám”. An Tông liền làm lễ, xin đưa y bát đã được truyền cho đại chúng xem. Ân Tông lại thưa Huỳnh Mai phó chúc: “Việc chỉ dạy như thế nào?”. Huệ Năng bảo: “Chỉ dạy tức không, chỉ luận về kiến tánh, chẳng luận thiền định giải thoát”. Ân Tông thưa: “Sao chẳng luận thiền định giải thoát?”. Huệ Năng bảo: “Vì ấy là hai pháp, không phải là Phật pháp. Phật pháp là pháp chẳng hai”. Ăn Tông lại hỏi: “Thế nào Phật pháp là pháp chẳng hai?”.

Huệ Năng bảo: “Pháp sư giảng kinh Niết Bàn, rõ được Phật tánh, ấy là pháp chẳng hai, như Cao Quí Đức Vương Bồ Tát bạch Phật rằng: “Phạm tứ trọng cấm, tạo tội ngũ nghịch và chúng xiển để v.v… sẽ đoạn thiện căn Phật tánh chăng?”. Phật bảo: “Thiện căn có hai, một là thường, hai là vô thường, Phật tánh chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, thế nên chẳng đoạn, gọi là chẳng hai; một là thiện, hai là chẳng thiện, Phật tánh chẳng phải thiện, chẳng phải chẳng thiện, ấy là chẳng hai; uẩn cùng với giới, phàm phu thấy hai, người trí rõ thấu tánh nó không hai, tánh không hai tức là Phật tánh”. Ân Tông nghe xong nói hoan hỉ chấp tay thưa: “Tôi giảng kinh ví như ngói gạch, nhân giả luận nghĩa ví như vàng ròng”. Khi ấy vì Huệ Năng cạo tóc, nguyện thờ làm thầy. Huệ Năng bèn ở dưới cây Bồ Đề khai pháp môn Đông Sơn.

Viên Đức


¹¹ Phật tánh: Cái mầm mống giác ngộ, vẫn có sẵn trong mọi chúng sinh.
¹² Kệ: Văn thơ là kệ. Mỗi bài kệ có một số câu, mỗi câu từ 3 đến 8 chữ. Cứ bốn câu thành một bài kệ.
¹³ Vô Thượng Bồ Đề: Cảnh giới giác ngộ cao nhất, cảnh giới giác ngộ của Phật.
¹⁴ Y bát: Ba bộ áo và cái bát đựng cơm của người xuất gia.
¹⁵ Thượng đường: Bước lên giảng đường để nói pháp.
¹⁶ Huệ Minh: Sách chép trước khi xuất gia, Huệ Minh là một võ tướng đệ tứ phẩm của triều đình, tánh tình nóng nảy bộc trực. Thuộc hàng thượng tọa trong môn đệ của Ngũ Tổ. Dẫn đầu trong số những người đuổi theo ngài Huệ Năng để giành y bát.
¹⁷ Phướn: Hay Phan, một thứ cờ không cán, làm bằng lụa, dài và nhỏ, treo từ trên xuống dưới. Phướn được treo lên để biểu dương sự oai nghiêm của Phật. Trong các dịp lễ lớn, người ta thường treo phướn ở chùa, giữa khoảng đất trống.

×